NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP

PHÒNG R&D - VNDA

Nhận thức xu thế phát triển thế giới và khu vực, cùng sự thay đổi liên tục nhu cầu xã hội cũng như diễn biến, tác động biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp

Bằng chiến lược “đứng trên vai những người khổng lồ‘’ để có thể đi nhanh và nhìn xa hơn, công ty đã tập trung khai thác các nguồn lực xã hội vào cùng phát triển, mở rộng hợp tác với các viện nghiên cứu công lập, 

VNDA NHẬN THẤY – ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ QUY TRÌNH HỮU CƠ TRONG PTNN BỀN VỮNG, ĐỂ ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC.

Trong nông nghiệp, việc sử dụng các sản phẩm hóa học như: thuốc diệt cỏ hóa học, thuốc trừ sâu hóa học, phân bón hóa học đã gây ô nhiễm môi trường đất, nông sản bị nhiễm độc, nguồn nước bị nhiễm độc,… làm ảnh hưởng rất lớn đến môi trường và chất lượng cuộc sống của con người.

Theo quan điểm của Tổ chức Nông nghiệp Hữu cơ Quốc tế (IFOAM): “Nông nghiệp hữu cơ là hệ thống đồng bộ hướng tới thực hiện các quá trình với kết quả bảo đảm hệ sinh thái bền vững, thực phẩm an toàn, dinh dưỡng tốt, nhân đạo với động vật và công bằng xã hội, không sử dụng các hóa chất nông nghiệp tổng hợp và các chất sinh trưởng phi hữu cơ, tạo điều kiện cho sự chuyển hóa khép kín trong hệ canh tác, chỉ được sử dụng các nguồn hiện có trong nông trại và các vật tư theo tiêu chuẩn của quy trình sản xuất.”

Vậy canh tác hữu cơ là gì? Dựa theo quan điểm trên, có thể hiểu một cách đơn giản rằng canh tác hữu cơ là một hình thức sản xuất nông nghiệp tránh hoặc loại bỏ hoàn toàn sản phẩm có chứa chất hóa học như: thuốc trừ sâu hóa học, phân bón hóa học, thuốc diệt cỏ hóa học, chất kích thích trong chăn nuôi, chất điều tiết tăng trưởng cây trồng,…  Trong quá trình canh tác theo hình thức nông nghiệp hữu cơ, người nông dân chủ yếu dựa vào việc quay vòng mùa vụ kết hợp với các chế phẩm, tận dụng chất thải nông nghiệp để tái sử dụng.

Vai trò của nông nghiệp hữu cơ Đối với sản xuất nông nghiệp hiện đại

Dựa trên nền sản xuất nông nghiệp truyền thống kết hợp với công nghệ sinh học, canh tác hữu cơ ngày càng phát triển để tạo ra các sản phẩm bảo vệ môi trường, tăng sản lượng và chất lượng nông sản. Mô hình này sử dụng các sản phẩm công nghệ như: thuốc diệt cỏ sinh học, phân bón hữu cơ sinh học, thuốc trừ sâu sinh học,…

Trên thế giới, sản xuất nông nghiệp hữu cơ đã được ứng dụng từ rất lâu. Ở Việt Nam, mô hình này cũng đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của giới chuyên môn, đặc biệt là người tiêu dùng. Để tạo ra các sản phẩm hữu cơ.

Phân biệt sản phẩm nông nghiệp hữu cơ và sản phẩm sạch

Về quy trình sản xuất

  • Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ: Quá trình sản xuất các sản phẩm hữu cơ đảm bảo không sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học hay các chất kích thích tăng trưởng. Nguồn thức ăn phục vụ quá trình chăn nuôi là hoàn toàn tự nhiên.
  • Sản phẩm nông sản sạch: Quá trình sản xuất vẫn còn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học, các chất điều tiết tăng trưởng ở định mức tiêu chuẩn cho phép.

Về chất lượng sản phẩm

  • Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ: Thơm ngon hơn vì giữ được hương vị tự nhiên, thời gian bảo quản cũng lâu hơn, hoàn toàn không có tồn dư hóa chất.
  • Sản phẩm nông sản sạch: Vẫn có thể tồn dư hóa chất ở định mức nhất định. Chất dinh dưỡng trong sản phẩm nông sản sạch vẫn có thể bị biến đổi, không giữ được trọn vẹn hương vị tự nhiên của sản phẩm.

       

CÔNG NGHỆ SINH HỌC được đánh giá là một trong những ngành kinh tế quan trọng nhất ở Việt Nam. Ngoài việc sản xuất phục vụ nhu cầu ngày càng tăng ở trong nước, Việt Nam còn là nước xuất khẩu lượng nông sản lớn mỗi năm. Các cây trồng chiếm ưu thế bao gồm cà phê, cao su, điều và lúa (Hình 1). Bên cạnh đó, nuôi trồng thủy sản và sản xuất trái cây đã phát triển và hướng đến việc xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Việc áp dụng các giải pháp trong đó có Công nghệ sinh học giúp tăng năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm, từ đó, tạo ra nhiều việc làm và gia tăng thu nhập cho nông dân Việt Nam.

Hình 1. Các cây trồng xuất khẩu đứng vị trí cao của Việt Nam trên thị trường thế giới (nguồn: internet tổng hợp).

Công nghệ sinh học và nông nghiệp bền vững

            Trong vòng 10 năm, dân số Việt Nam đã tăng từ 85,5 triệu người (năm 2009) lên 96,2 triệu người (năm 2019), tính đến tháng 11/2020, Việt Nam là quốc gia có số dân đông thứ 15 trên thế giới và có diện tích khoảng 331,2 nghìn km2 (đứng thứ 65 trên thế giới). Chưa kể Việt Nam còn là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng lớn nhất bởi các vấn đề do biến đổi khí hậu gây ra và ngành nông nghiệp là một trong những ngành bị tác động mạnh nhất. Vì vậy, để nền nông nghiệp phát triển trở thành “trụ đỡ” của nền kinh tế, nông nghiệp Việt Nam đã tìm đến các giải pháp từ công nghệ sinh học và công nghiệp 4.0 nhằm phát triển một nền nông nghiệp xanh, bền vững, tự động hoá đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và góp phần bảo đảm an sinh xã hội và an ninh lương thực thế giới.

Tạo giống cây trồng vật nuôi

   Công nghệ sinh học đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển các sản phẩm thực phẩm phục vụ con người suốt nhiều thế kỷ qua. Từ đầu những năm 90, công nghệ sinh học được xem là 1 trong 4 hướng công nghệ cần ưu tiên phát triển, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một trong những mục tiêu phát triển công nghệ sinh học của Việt Nam những năm trở lại đây là tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất, chất lượng và mang lại hiệu quả kinh tế cao, có sức chống chịu tốt với các điều kiện môi trường, phục vụ hiệu quả cho nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản. Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp thường được thực hiện thông qua các kỹ thuật tiên tiến điển hình như: kỹ thuật nuôi cấy mô và kỹ thuật di truyền. Trong đó, kỹ thuật nuôi cấy mô thực vật hay còn gọi là kỹ thuật nhân giống in vitro ngày càng phát triển mạnh, thành công trên nhiều đối tượng cây trồng khác nhau, đặc biệt các cây rau và cây ăn trái cung cấp nguồn thực phẩm cho con người (Hình 2).

Hình 2. Nhân giống in vitro cây măng tây và cây thanh long  tại Phòng thí nghiệm Viện CNSH & MT, Trường Đại học Nha Trang.

     Bên cạnh đó, kỹ thuật di truyền hay công nghệ gen ra đời được ví như “chìa khóa đa năng” để mở những nút thắt vốn gây rất nhiều khó khăn cho các nhà chọn tạo giống truyền thống nhằm tạo ra một giống cây trồng/vật nuôi “hoàn hảo” hơn. Tuy còn nhiều tranh cãi về phạm vi sử dụng các sinh vật chuyển gen (GMO), vai trò của kỹ thuật di truyền là không thể chối cãi trong công cuộc cải tạo giống cây trồng vật nuôi (Hình 3). Bắt đầu từ năm 2015, Việt Nam cũng đã chấp nhận trồng trọt các giống cây chuyển gen.

Hình 3. Cá hồi chuyển gen AquaAdvantage (trên) so với cá hồi không chuyển gen có cùng độ tuổi (dưới) (https://alchetron.com/AquAdvantage-salmon)

.